Hé lộ về số nhà sản xuất Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong gần 1 triệu doanh nghiệp Việt Nam thì chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chiếm 0,001%.
Sputnik
Chuyên gia kiến nghị cần điều chỉnh lại cách tiếp cận với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Những chính sách mang tính bao cấp, hỗ trợ miễn giảm trong thời gian quá dài cần được thu hẹp, để nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, tuân theo quy luật vốn có của nó.

Tỷ lệ doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng còn thấp

Chiều ngày 26/6/2024, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp đã phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn kinh doanh 2024 với chủ đề “Đa dạng hoá chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao khả năng thích ứng cho doanh nghiệp”.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, dù chuỗi cung ứng đã dần được tái cấu trúc, nhưng thực tế đa số các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị.
Bộ Công Thương ghi nhận, Việt Nam hiện đang có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng.
Tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp
TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, cho biết theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong gần 1 triệu doanh nghiệp thì chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chiếm 0,001%.
"Và theo số liệu của Cục Công nghiệp thuộc Bộ Công Thương, trong 5.000 doanh nghiệp này chỉ có 100 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 1. Sau gần 40 năm phát triển doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam thực sự trở thành một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu là rất thấp”, ông Bình nói
Từ đó, đại diện Economica Vietnam nêu rõ một số khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt đang gặp phải khi gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu: phải đáp ứng những yêu cầu hết sức khắt khe, yêu cầu cao về phương diện kỹ thuật, quản trị và thời gian giao hàng của doanh nghiệp đầu chuỗi.
"Họ yêu cầu doanh nghiệp Việt phải thiết lập hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, lao động, điều kiện về vệ sinh an toàn lao động. Những yêu cầu này không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được", Giám đốc điều hành Economica Việt Nam lưu ý.
Ngoài ra, một khó khăn khác là yêu cầu về sản xuất xanh từ thị trường quốc tế ngày càng cao, bắt buộc các quốc gia khác khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu cũng phải đẩy nhanh quá trình xanh hoá sản xuất.
Muốn làm được như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều, cần có nguồn vốn rất lớn và phải liên tục đáp ứng yêu cầu của đầu chuỗi.
Chưa hết, để bỏ ra số tiền vốn lớn, doanh nghiệp phải có niềm tin rất lớn vào môi trường kinh doanh, nghĩa là khi đầu tư phải an toàn, không có quá nhiều sự thay đổi về cơ chế chính sách, không có sự thay đổi về quy định pháp luật.
Về phần mình, TS. Nguyễn Tú Anh – Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế thuộc Ban Kinh tế Trung ương – cho biết thách thức lớn nhất khi tham gia chuỗi là các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề cũng như cả lao động phổ thông.
Hé lộ danh sách 50 công ty niêm yết tốt nhất Việt Nam
Thách thức trong kết nối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI cũng là một vấn đề cần giải quyết. Yêu cầu của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp địa phương là tính ổn định và chất lượng cao. Doanh nghiệp Việt muốn tham gia, kết nối vào chuỗi cung ứng buộc phải đầu tư vào con người, vào công nghệ.
Trao đổi thêm tại diễn đàn, ông Nguyễn Văn Hội – Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương thuộc Bộ Công Thương – cho biết có những khó khăn trong quá trình thực thi chính sách hỗ trợ, như nhận thức, tư duy, cách nghĩ, tầm nhìn của các nhà làm chính sách.
Những vấn đề tồn tại là tình trạng thiếu minh bạch và bình đẳng, thiếu tính ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu chặt chẽ.
Ngoài ra, chính sách thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng thực thi cũng chưa thật sự hiệu quả. Theo ông, Việt Nam chưa có những cơ chế, chính sách riêng cho khuyến khích phát triển logistics xuất khẩu.
Chưa hết, chuỗi sản xuất, xuất khẩu vẫn vướng mắc các quy định của pháp luật hiện hành. Nhận thức và năng lực thực thi chính sách thúc đẩy xuất khẩu từ phía các doanh nghiệp còn hạn chế.

Điều chỉnh cách tiếp cận trong chính sách hỗ trợ

TS. Lê Duy Bình cho rằng, để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần hoàn thiện thể chế, chính sách.
Tiến hành cải cách thủ tục hành chính, thủ tục xuất nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành. Song song đó, nỗ lực tạo thuận lợi hoá thương mại, giúp cho việc gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu mới dễ dàng hơn trước đây.
Theo chuyên gia, cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực công nghệ. Thiết lập các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trung tâm khảo thí… để đáp ứng yêu cầu về ISO, tiêu chuẩn chất lượng.
Ông Bình cho rằng, những hệ sinh thái hiện có vẫn chưa tạo ra được sự hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp, nhất là đối với những ngành có nhu cầu về vốn lớn như năng lượng tái tạo, giao thông xanh.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cách thức tiếp cận hỗ trợ doanh nghiệp. Theo ông, trong số các chính sách hỗ trợ của Nhà nước hiện nay, có rất ít chính sách thật sự phát huy hiệu quả.
Đổi mới thể chế, quy định pháp luật sẽ giúp con đường gia nhập chuỗi cung ứng trở nên thuận lợi hơn, rộng mở hơn. Ngoài ra, tư duy hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần đổi mới, bảo đảm hỗ trợ doanh nghiệp một cách trọng tâm, trọng điểm hơn nữa.
Trong bối cảnh nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại và nhiều cơ hội mới bắt đầu xuất hiện, có sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực nội tại, vươn ra thị trường quốc tế và cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài theo nguyên tắc thị trường.
Chuyên gia cho rằng, việc các doanh nghiệp Việt Nam có thể gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh hiện nay hay không phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực tự thân của cộng đồng doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, nỗ lực này sẽ dễ dàng hơn, thuận lợi hơn rất nhiều nếu các điều kiện về thể chế, môi trường kinh doanh, quy định pháp luật cũng đồng thời dễ dàng hơn, thuận lợi hơn với quá trình nỗ lực tự thân của doanh nghiệp.
Theo ông, chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, có giá trị gia tăng cao, là tương lai của thế giới và cũng là tương lai của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới, như công nghiệp bán dẫn, chip, năng lượng xanh, y tế, chăm sóc sức khoẻ.
Việt Nam đối thoại kinh tế thành công với Mỹ
Chính sách hỗ trợ phải theo hướng trả lại không gian cho thị trường thông qua các biện pháp hỗ trợ. Nhiều biện pháp hỗ trợ hiện tại theo hơi hướng cho không, bao cấp. Điều này rất cần thiết khi nền kinh tế còn khó khăn, nhưng trong thời điểm này cần điều chỉnh lại cách tiếp cận này.
Những chính sách mang tính bao cấp, hỗ trợ miễn giảm trong thời gian quá dài cần được thu hẹp dần quy mô hay về cường độ, để nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, theo đúng quy luật vốn có của nó.
Các doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật thị trường, giúp cho thị trường phân bổ nguồn lực trên nền kinh tế một cách tối ưu hơn, hiệu quả hơn. Và điều này cũng sẽ giúp các doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn.
Thảo luận